ThS. Vương Thị Thanh Quy
Trường Kinh tế Tài chính, Đại học Thủ Dầu Một
Email: quyvtt@tdmu.edu.vn
Tóm tắt
Nước giải khát có đường là sản phẩm giải khát được ưa chuộng trong đời sống hiện đại. Tuy nhiên, khoa học cũng đã chứng minh, mặt hàng này gây ra không ít ảnh hưởng đến sức khỏe con người khi sử dụng quá mức. Nghiên cứu được thực hiện để phân tích các tác hại của đường trong nước giải khát đến sức khỏe người tiêu dùng nói chung, giới trẻ và đặc biệt là trẻ em nói riêng. Thực trạng này được đưa vào khung phân tích lý thuyết để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam, kết hợp tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị giải pháp điều tiết thị trường bằng công cụ chính sách, hướng đến các mục tiêu kinh tế – xã hội như bổ sung, củng cố nguồn thu ngân sách nhà nước, đảm bảo cuộc sống khỏe mạnh, hạnh phúc cho mọi lứa tuổi như mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam đang cam kết thực hiện.
Từ Khóa: Mục tiêu phát triển bền vững, nước giải khát có đường, phát triển bền vững
Summary
Sugar-sweetened beverages are popular refreshments in modern life. However, scientific evidence has demonstrated that excessive consumption of these products adversely affects human health. The study analyzes the harmful effects of sugar in these beverages on consumers’ health in general, with particular focus on young people and especially children. This issue is examined within a theoretical framework to clarify the research problem in the context of Viet Nam, combined with references to international experiences. Based on this analysis, the study proposes several policy recommendations to regulate the market, aiming to achieve socio-economic goals such as supplementing and strengthening state budget revenues and ensuring a healthy and happy life for people of all ages, in line with the sustainable development goals to which Vietnam is committed.
Keywords: Sustainable Development Goals, sugar sweetened beverages, sustainable development
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế giới bước sang cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật gắn liền với sự phát triển nhanh chóng mọi mặt của kinh tế, xã hội. Năng suất không ngừng được cải thiện nhờ đổi mới sáng tạo đã tạo đà cho hầu hết các thị trường sản phẩm công nghiệp ngày càng mở rộng. Trong đó, mặt hàng nước giải khát có đường (Sugar Sweetened Beverage – SSB) ngày càng được ưa chuộng nhờ các ưu thế nổi bật như sự tiện lợi, khả năng giải khát và bổ sung năng lượng tức thời. Tuy nhiên, việc lạm dụng nước giải khát có đường, nhất là ở giới trẻ ngày càng gia tăng cũng là nguyên nhân dẫn đến một số nguy cơ bệnh mãn tính như béo phì, tim mạch… Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới các trường hợp đột quỵ, đột tử hiện nay.
Do vậy, điều tiết thị trường nước giải khát có đường theo hướng sản xuất và tiêu dùng bền vững, đồng thời giảm gánh nặng y tế, đảm bảo sức khỏe cộng đồng – một trong những mục tiêu phát triển bền vững mà các quốc gia đang hướng tới. Là một thành viên năng động của Liên hợp quốc, hội nhập kinh tế sâu rộng, Việt Nam cũng có những cam kết và lộ trình, giải pháp hoàn thành 17 mục tiêu phát triển bền vững. Điều tiết thị trường nước giải khát có đường, do vậy, cũng là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của quốc gia.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm lược khảo cơ sở lý thuyết hàn lâm xoay quanh thị trường nước giải khát có đường. Đồng thời, nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm chính sách đã áp dụng hiệu quả ở một số quốc gia để từ đó kết hợp việc đánh giá thực trạng tác động của nước giải khát có đường thời gian qua ở nước ta. Qua đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp điều tiết thị trường này, hướng đến phát triển bền vững tại Việt Nam trong thời gian tới.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Ngoại tác tiêu cực
Theo Pigou (1920), các ảnh hưởng không được ghi nhận, phản ánh trong giá cả thị trường của một hàng hóa, dịch vụ được định nghĩa là những ngoại tác. Hal R. Varian (2014) đã mở rộng hơn định nghĩa này. Theo đó, khi một hoạt động sản xuất hoặc tiêu dùng giữa bên mua và bán ở một thị trường nhất định đồng thời tạo ra những tác động không tốt đến bên thứ ba, điều đó được hiểu là ngoại tác tiêu cực.
Kinh tế học phúc lợi cho rằng, trong khi cơ chế thị trường giúp các bên giao dịch đạt được lợi ích kinh tế của mình thì ngoại tác tiêu cực lại tạo ra các vấn đề xã hội, đặc biệt là các vấn đề về môi trường và sức khỏe. Với mô hình sản xuất công nghiệp, doanh nghiệp thường chỉ chú trọng đến chi phí sản xuất trực tiếp sản phẩm mà không chịu chi phí ô nhiễm từ hoạt động của mình qua việc xả thải ra môi trường không khí, môi trường nước. Cùng với đó, việc tiêu dùng quá mức các mặt hàng thức ăn, đồ uống thiếu khoa học cũng tạo ra gánh nặng chi phí y tế cho bản thân người tiêu dùng và cả ngân sách y tế quốc gia. Như vậy, ở góc nhìn tổng thể, ngoại tác tiêu cực làm cho nguồn lực của nền kinh tế không được phân bổ tối ưu và suy giảm phúc lợi xã hội nói chung.
Hành vi người tiêu dùng phi lý trí
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh rằng hành vi của người tiêu dùng thường không hoàn toàn hợp lý do những tác nhân chính như thiếu thông tin hoặc thông tin không cân xứng và thiên kiến về nhận thức (Daniel Kahneman, 1979). Một nghiên cứu quan sát dữ liệu khảo sát từ 15 quốc gia châu Âu trong giai đoạn 3 năm liên tiếp cho thấy thông tin dinh dưỡng và các cảnh báo sức khỏe trên bao bì, nhãn dán có tác động tích cực đến hiệu quả tiêu dùng. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khách quan, người tiêu dùng thường không có đủ các thông tin về sức khỏe dài hạn của việc tiêu dùng thường xuyên sản phẩm, dẫn đến các rủi ro đưa ra quyết định thiếu chính xác.
Bên cạnh đó, thiên kiến nhận thức cũng thường làm cho người tiêu dùng đưa ra các quyết định sai lầm, đặc biệt là đối với các hàng hóa liên quan đến sức khỏe. Người dùng thường chủ quan đánh giá cao giá trị của tiện ích hiện tại hơn các giá trị lợi ích tương lai nên thường tiêu dùng quá mức các sản phẩm ảnh hưởng sức khỏe lâu dài như rượu, bia, thuốc lá, nước giải khát có đường, có ga (Ted O’Donoghue và Matthew Rabin, 1999).
Phát triển bền vững
Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững được Liên hợp quốc thông qua từ năm 2015 hướng đến một kế hoạch hành động chung phạm vi toàn cầu, hướng đến các mục tiêu hòa bình, thịnh vượng cho con người ở hiện tại và trong tương lai. Trọng tâm của Chương trình này là 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) với 3 trụ cột chính là kinh tế bền vững, xã hội công bằng và môi trường lành mạnh. Trong đó, mục tiêu số 3 (SDG 3) – sức khỏe cộng đồng và mục tiêu số 12 (SDG 12) – tiêu dùng, sản xuất bền vững được thiết lập như các chính sách quan trọng để các quốc gia thành viên định hướng điều tiết những thị trường liên quan theo hướng bền vững hơn. Các chính sách, mục tiêu này được cụ thể hóa qua những chỉ số chi tiết như: giảm tỷ lệ tử vong từ các nhóm bệnh nguy cơ, mãn tính như tim mạch, đái tháo đường; hạn chế, loại bỏ tiêu dùng sản phẩm gây hại…
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đã có nhiều hướng dẫn, chương trình hành động cụ thể liên quan đến hạn chế sử dụng nước giải khát có đường như một trong những hành động để góp phần hoàn thành SDGs. Thuế tiêu thụ đặc biệt tối thiểu 20-25% đối với nước giải khát có đường được khuyến nghị áp dụng như một công cụ chính sách nhằm hạn chế tiêu dùng, cải thiện sức khỏe cộng đồng và tăng thu ngân sách, đồng thời hướng đến SDG 3 và SDG 12.
THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM
Kết quả thống kê từ WHO cho thấy, lượng tiêu thụ đồ uống có đường tại Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2023, ước tính bình quân mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 70 lít sản phẩm nước uống có đường, tương đương 1,3 lít mỗi tuần. Đặc biệt, trong số đối tượng tiêu dùng, phần lớn là trẻ em và thanh thiếu niên. Đây là nhóm đối tượng có nguy cơ đặc biệt cao từ các ảnh hưởng do tiêu dùng quá mức nước giải khát có đường đến quá trình phát triển thể trạng và não bộ. WHO cũng cảnh báo sử dụng quá mức nước giải khát có đường làm tăng các rủi ro gia tăng các bệnh tiểu đường type 2, tim mạch, thậm chí là ung thư, đột quỵ.
Theo Bộ Y tế (2023), tỷ lệ trẻ em béo phì ở Việt Nam đã tăng gấp đôi, từ 8,5% năm 2010 lên đến 19% năm 2020. Tình trạng mắc các bệnh tăng huyết áp chiếm khoảng 20% người trưởng thành, tương ứng khoảng 17 triệu dân ở độ tuổi lao động. Cả nước hiện cũng có 4,6 triệu người đang sống chung với bệnh tiểu đường và hơn 120.000 ca tử vong mỗi năm. Phân tích các nguyên nhân của Bộ Y tế cho thấy, việc tiêu thụ đồ uống có đường ở nước ta làm tăng nguy cơ béo phì lên 18%. Mỗi chai đồ uống có đường tiêu dùng hằng ngày cũng tăng nguy cơ huyết áp lên 12%, đặc biệt làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 lên đến 29%.
Các bệnh lý trên gián tiếp làm tăng nguy cơ của các bệnh mãn tính liên quan đến tim mạch như bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não. Bộ Y tế cũng dự báo rằng nếu không có các biện pháp kiểm soát hiệu quả, mức tiêu thụ đồ uống có đường sẽ tiếp tục tăng bình quân 6,4% mỗi năm trong thời gian tới.
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Cộng hòa Pháp là một trong những nước đầu tiên ở châu Âu áp dụng thuế tiêu dùng đối với đồ uống có đường hoặc nước giải khát có thêm chất tạo ngọt. Năm 2012, Luật Tài chính áp dụng mức thuế cố định cho đến năm 2018, Pháp chuyển sang tính thuế đồ uống từng bậc theo biểu thuế, được xây dựng dựa trên định lượng cụ thể trên mặt hàng (Cornelsen, 2015). Mức thuế này có thể được điều chỉnh dựa trên tình hình lạm phát hằng năm.
Ở khu vực Bắc Mỹ, từ năm 2014, Mexico cũng bắt đầu áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với mức 1 peso/lít các sản phẩm là nước ngọt có đường và thực phẩm nhiều calo như khoai tây chiên, kẹo, granola ăn sáng. Chỉ sau 2 năm áp dụng mức thuế này, tiêu dùng nước giải khát có đường đã giảm đến 10%. Chính phủ Mexico còn quy định hạn chế các hình thức quảng cáo các mặt hàng này hướng đến đối tượng là trẻ em. Nguồn thu từ sắc thuế trên được ưu tiên bổ sung vào ngân sách đầu tư hệ thống nước sạch ở các trường học.
Là một trong những quốc gia có tỷ lệ thừa cân, béo phì cao hàng đầu khu vực Mỹ Latin, Chile cũng sớm ban hành Luật Nhãn cảnh báo từ năm 2016. Theo đó, tất cả các mặt hàng có hàm lượng đường, muối, chất béo, calo cao đều phải dán nhãn cảnh báo màu đen hình 8 cạnh để dễ nhận dạng; nhãn dán phải ghi rõ các dòng chữ liên quan như “quá nhiều đường”, “quá nhiều calo”, “quá nhiều natri”.
Tại Hoa Kỳ, thị trường nước giải khát có đường được quản lý, điều tiết khác nhau theo từng bang. Thành phố Berkeley (bang California) là địa phương tiên phong từ năm 2014 áp dụng thuế 1 cent/ounce cho các nhà phân phối, bán đồ uống có đường như soda, nước tăng lực, nước trái cây có đường… Nguồn thu từ thuế này được bố trí tài trợ cho các chương trình sức khỏe cộng đồng địa phương, giảm béo phì và tài trợ cho các chi phí chữa bệnh tiểu đường. Thành phố Seattle (Washington) cũng thiết kế chính sách thuế tương tự, nhưng với mức thuế cao hơn 1,75 cent/ounce.
Ở Trung Quốc, theo Tianchang Zhai và cộng sự (2022), thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường có tác dụng làm giảm lượng đường tiêu thụ, tăng nhẹ lượng đồ uống ít calo và nhờ vậy giảm đáng kể tỷ lệ các bệnh béo phì. Thuế được tài trợ cho các nghiên cứu phát triển mô hình sản xuất thực phẩm ít đường, không đường. Chính phủ nước này cũng áp dụng các chính sách phi tài chính như quy định ghi rõ các hàm lượng đường, calo trên bao bì thực phẩm đồ uống (Luật An toàn thực phẩm sửa đổi năm 2015). Trung Quốc còn đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục thông qua chương trình “Trung Quốc Khỏe Mạnh 2030” nhấn mạnh việc hạn chế tự do tiêu dùng đường, thúc đẩy môi trường ăn uống lành mạnh trong học đường. Vài thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải cũng đã ban hành lệnh cấm nước ngọt có đường trong căng tin các trường.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nước giải khát có đường là một trong những sản phẩm đồ uống hấp dẫn, tiện lợi đáp ứng được hầu hết nhu cầu giải khát của người tiêu dùng. Ngành sản xuất này đóng góp đáng kể vào GDP, việc làm, ngân sách quốc gia. Tuy nhiên, việc người dùng, nhất là giới trẻ, thanh thiếu niên có xu hướng sử dụng quá nhiều loại sản phẩm này trong thời gian qua là một vấn đề đáng quan ngại do những hệ lụy sức khỏe. Dựa trên thực trạng đã phân tích, kết hợp với các kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị chính sách điều tiết thị trường nước giải khát có đường hướng đến phát triển kinh tế Việt Nam bền vững hơn trong thời gian tới, như sau:
Áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt hướng đến mục tiêu sản xuất và tiêu dùng bền vững
Thuế tiêu thụ đặc biệt, áp dụng cho các hàng hóa, dịch vụ đặc biệt, không khuyến khích nói chung và nước giải khát có đường nói riêng đã phát huy hiệu quả từ kinh nghiệm ở hầu hết các quốc gia. Theo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi, bổ sung năm 2025 , Việt Nam cũng đã áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa, nước giải khát theo tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên mức 5g/100 ml. Theo lộ trình, thuế suất bắt đầu áp dụng từ năm 2027 là 8%, lộ trình tăng lên 10% từ năm 2028. Đây là một giải pháp vừa đảm bảo hạn chế tiêu dùng nước giải khát có đường quá mức, vừa tăng thu ngân sách nhà nước do cơ sở thuế từ phạm vi tiêu dùng tương đối rộng.
Tuy nhiên, để Luật được nhanh chóng đi vào thực tiễn, cần khẩn trương bổ sung, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật như Bộ Tiêu chuẩn Việt Nam về nước giải khát có đường, cách thức nhận dạng, xác định hàm lượng chính xác. Việc định lượng giới hạn làm điều kiện áp thuế tiêu thụ đặc biệt không chỉ giúp người tiêu dùng đảm bảo sức khỏe mà còn định hướng, điều tiết việc sản xuất của doanh nghiệp theo hướng bền vững hơn. Theo đó, để tối ưu tài chính trong bối cảnh áp thuế tiêu thụ đặc biệt mà vẫn giữ vững thị trường, doanh nghiệp sản xuất nước giải khát có đường sẽ tự điều chỉnh việc sản xuất, tái cấu trúc sản phẩm có hàm lượng đường ít hơn, tuân thủ các tiêu chuẩn theo quy định.
Nâng cao nhận thức về sức khỏe người tiêu dùng
Các phân tích đã trình bày cho thấy hành vi phi lý trí của người tiêu dùng xuất phát từ các thiên kiến chủ quan về sức khỏe lâu dài và lợi ích tức thời từ mặt hàng nước giải khát có đường. Do đó, một trong những giải pháp hiệu quả nhất cần được áp dụng là nâng cao nhận thức về sức khỏe cho người tiêu dùng, rút ngắn thiên lệch, đảm bảo hài hòa lợi ích ngắn và dài hạn trong việc cân nhắc sử dụng mặt hàng nước giải khát có đường hợp lý. Một khi sức khỏe được đặt làm mục đích trọng tâm hàng đầu cho những lựa chọn, người dùng sẽ tự giác tìm hiểu các thông tin liên quan đến mặt hàng mà mình sử dụng, không chỉ riêng nước giải khát có đường. Điều này cũng gián tiếp điều tiết được các mặt hàng không khuyến khích có tính chất tương tự như rượu, bia, thuốc lá, thực phẩm, đồ uống có chất kích thích khác.
Giải quyết các vấn đề bất cân xứng thông tin
Cung cấp thêm thông tin về sức khỏe của sản phẩm cũng là một giải pháp nên được lồng ghép, kết hợp để đảm bảo điều kiện nâng cao nhận thức tiêu dùng. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc đưa thêm các cảnh báo về sức khỏe khi sử dụng sản phẩm quá mức cũng đem lại nhiều thay đổi hiệu quả. Nhà nước có thể cân nhắc áp dụng các giải pháp quản lý hành chính như quy định thêm các cảnh báo y tế ngay trên bao bì, nhãn hàng nước giải khát có đường. Ví dụ như: “Uống nhiều nước giải khát có đường có thể dẫn đến tăng nguy cơ béo phì, tim mạch, bệnh đường huyết mãn tính suốt đời”; “Uống nhiều nước ngọt có ga có thể ảnh hưởng, làm suy giảm nghiêm trọng đến chức năng của thận và tim mạch”.
Thực tế cho thấy, thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng làm giá sản phẩm cao hơn so với trước đây, dẫn đến hạn chế tiêu dùng ở đa số nhóm khách hàng có thu nhập thấp hoặc trung bình. Tuy nhiên, đối với các khách hàng, hộ gia đình có mức thu nhập cao, việc tăng giá này không ảnh hưởng nhiều đến thay đổi trong quyết định chi tiêu của họ. Do đó, đối với các trường hợp này, việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các thông tin cảnh báo y tế sẽ phát huy hiệu quả hơn. Để triển khai hiệu quả chính sách này, cần tích hợp áp dụng công nghệ thông tin, truyền thông trên nhiều phương diện, kênh thông tin như thông tin nhanh qua hệ thống VNEID, hệ thống tin nhắn điện thoại của Bộ Y tế, truyền hình, sóng phát thanh truyền thống.
Các giải pháp nêu trên nên được áp dụng đồng thời, lồng ghép và kết hợp với nhau ở cả cấp độ quốc gia và địa phương, đơn vị để phát huy tối đa hiệu quả quản lý thị trường nước giải khát có đường, hướng đến phát triển bền vững hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Arthur Pigou, A.C. (1920). The Economics of Welfare, London: Macmillan.
2. Bộ Y tế (2023). Báo cáo tác động chính sách Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi.
3. Cornelsen, L., Carreido, A., (2015). Health-related taxes on food and beverages. Food Research Collaboration Policy Brief.
4. Daniel Kahneman and Amos Tversky (1979). Prospect Theory: An Analysis of Decision under Risk.
5. Hal R. Varian (2014). Intermediate Microeconomics: A Modern Approach.
6. Quốc hội (2025). Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi 2025.
7. Ted O’Donoghue, Matthew Rabin (1999), Doing It Now or Later. American Economic Review.
9. Tianchang Zhai a, Lei Li b, Jingjing Wang c,Wei Si (2022). Will the consumption tax on sugar-sweetened beverages help promote healthy beverage consumption? Evidence from urban China, China Economic Review. Volume 73, 101798.
10. World Health Organization (2022). Manual on Sugar-Sweetened Beverage Taxation Policies to Promote Healthy Diets. https://www.who.int/.
11. World Health Organization (2023). Global report on the use of sugar-sweetened beverage taxes.