EU vừa đưa các sản phẩm mì ăn liền sản xuất tại Việt Nam ra khỏi danh sách tại Phụ lục I, tức là sẽ không còn phải chịu kiểm tra an toàn thực phẩm tại cửa khẩu khi nhập khẩu vào thị trường EU. Quy định mới bắt đầu có hiệu lực từ ngày 2/7/2024, được kỳ vọng sẽ giúp sản phẩm mì ăn liền Việt Nam dễ dàng tiếp cận thị trường EU và các thị trường khác trên thế giới…
Văn phòng SPS Việt Nam (Văn phòng quốc gia về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật thuộc Cục Bảo vệ thực vật) cho biết cơ quan này vừa nhận thông báo từ Ban thư ký Tổ chức thương mại thế giới (WTO) về việc Ủy ban châu Âu (EC) đã đăng Công báo Quy định số 2024/1662 ký ngày 11/6/2024 về rà soát áp dụng các biện pháp tăng cường kiểm tra bổ sung, biện pháp khẩn cấp quản lý nhập khẩu hàng nông sản, thực phẩm từ các nước thứ 3 vào thị trường EU.
MÌ ĂN LIỀN ĐÃ ĐẢM BẢO CÁC QUY ĐỊNH CỦA EU
Theo đó, do doanh nghiệp Việt Nam tuân thủ tốt các quy định của EU đối với các sản phẩm mì ăn liền (có chứa gói gia vị hoặc nước sốt), phía bạn đã đưa sản phẩm này ra khỏi danh sách tại Phụ lục I, tức là sẽ không còn chịu tần suất kiểm tra tại cửa khẩu. Các quy định mới này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 2/7/2024.
Ông Ngô Xuân Nam, Phó giám đốc SPS Việt Nam, cho biết trước đó, sản phẩm mì ăn liền của Việt Nam bị tăng tần suất kiểm tra biên giới từ tháng 12/2021 do chứa Ethylene oxide (EO).
“Việc được đưa ra khỏi diện kiểm soát an toàn thực phẩm là một bước tiến quan trọng, giúp mì ăn liền Việt Nam dễ dàng tiếp cận thị trường EU và các thị trường trên thế giới”.
Ông Ngô Xuân Nam, Phó giám đốc SPS Việt Nam.
Đối với quả thanh long của Việt Nam, do còn có một số lô hàng vi phạm Quy định (EU) 2019/1793, nên EU áp dụng tần suất kiểm tra tại biên giới là 30% và kèm giấy chứng nhận kết quả phân tích mẫu đối với lô hàng.
Đối với quả ớt, do còn có một số lô hàng vi phạm, EU áp dụng tần suất kiểm tra tại biên giới là 50% và kèm giấy chứng nhận kết quả phân tích mẫu đối với lô hàng (chuyển từ Phụ lục I sang Phụ lục II).
Đối với đậu bắp, do còn 2 lô hàng bị vi phạm, EU giữ nguyên tần suất kiểm tra tại biên giới là 50% và kèm giấy chứng nhận kết quả phân tích mẫu đối với lô hàng. Đối với sản phẩm sầu riêng, EU giữ nguyên tần suất kiểm tra tại biên giới là 10%.
“Đây là sự nỗ lực của Văn phòng SPS Việt Nam, các cơ quan chuyên môn của Bộ Công Thương, Thương vụ Việt Nam và Tham tán thương mại Việt Nam tại EU, đặc biệt là sự tuân thủ các quy định EU của doanh nghiệp trong ngành hàng mì ăn liền”, ông Nam chia sẻ.
Đại diện SPS Việt Nam thông tin thêm: hiện EU chia sản phẩm nông sản thực phẩm nhập khẩu thành 2 loại, ít rủi ro và rủi ro cao. Trong đó, những sản phẩm ít rủi ro, thông qua các đánh giá của phía bạn, sẽ không yêu cầu kiểm soát tại cửa khẩu. Ngược lại, sản phẩm rủi ro cao sẽ cần nhiều biện pháp, tính từ lúc nhập vào EU cho đến hậu kiểm, tại các siêu thị, đại lý bán lẻ, kênh phân phối…
Những sản phẩm từ nước thứ 3, bị EU xếp vào diện rủi ro cao và không có nguồn gốc động vật, phải chịu sự kiểm soát theo Quy định (EU) 2019/1973, trong đó có Việt Nam. Quy định này có 3 phụ lục:
Phụ lục I: Tăng cường các biện pháp kiểm soát chính thức các sản phẩm tại cửa khẩu, kiểm tra hồ sơ truy xuất nguồn gốc, lấy mẫu phân tích ngẫu nhiên theo tần suất các lô hàng (5%, 10%, 20%, 30%, 50%); Bắt buộc nhà xuất khẩu phải thông báo trước tới cơ quan thẩm quyền.
Phụ lục II: Yêu cầu tương tự Phụ lục I kèm theo điều kiện kiểm soát sản phẩm nhập khẩu có điều kiện đặc biệt như giấy chứng nhận của cơ quan quản lý quốc gia xuất khẩu, kết quả phân tích các mối nguy.
Phụ lục IIa: Tạm đình chỉ nhập khẩu vào EU.
Định kỳ 6 tháng 1 lần, EU sẽ họp, xem xét, biểu quyết và quyết định tăng, giảm tần suất hoặc đưa ra khỏi danh sách kiểm soát theo Phụ lục I, Phụ lục II hay Phụ lục IIa.
VẪN CÒN 4 NÔNG SẢN BỊ EU ÁP DỤNG KIỂM TRA TẦN SUẤT
Ông Nam cho biết so với kỳ thông báo trước của EU vào ngày 18/1/2024, hiện Việt Nam chỉ còn 4 sản phẩm bị áp dụng tần suất kiểm tra biên giới theo Quy định (EU) 2019/1973.
Với những sản phẩm có nguồn gốc thực vật, ông Nam đề nghị doanh nghiệp, ngành hàng, người dân và các cơ quan quản lý, chuyên môn tăng cường hơn nữa việc tuân thủ quy định của EU, đặc biệt là việc kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật khi mà nhiều mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) của EU ở mức rất thấp.
Các sản phẩm nông sản, thực phẩm muốn nhập khẩu vào EU phải đảm tuân thủ các quy định của thị trường EU như quy định về đăng ký danh sách doanh nghiệp, quy định về mức dư lượng tối đa cho phép (MRL) đối với các sản phẩm có nguồn gốc thực vật, quy định về mức dư lượng kháng sinh đối với sản phẩm có nguồn gốc động vật.
“Đặc biệt, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần phải tăng cường kiểm soát vi sinh vật, kiểm soát mức dư lượng tối đa thuốc bảo vệ thực vật (MRL), kiểm soát thuốc kháng sinh và phụ gia thực phẩm. Vì đây là các quy định bắt buộc áp dụng”.
Ông Ngô Xuân Nam, Phó giám đốc SPS Việt Nam.
Bên cạnh đó, còn các quy định về chất phụ gia thực phẩm, vật liệu tiếp xúc với thực phẩm, quy định về sản phẩm phối trộn, quy định về vùng an toàn dịch bệnh, quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc đối với các cơ sở chế biến, quy định IUU, quy định chống phá rừng (EUDR) hoặc các quy định liên quan khác.
Chi tiết quy định đối với từng sản phẩm, nhà sản xuất, xuất khẩu nên tham khảo từ các cơ quan có thẩm quyền hoặc Văn phòng SPS Việt Nam để được hướng dẫn.
Trên cơ sở đó, để hạn chế thấp nhất rủi ro bị gia tăng tần suất kiểm tra và thậm chí tạm dừng nhập khẩu với một số nông sản, thực phẩm nhập khẩu vào thị trường này, Văn phòng SPS Việt Nam đề nghị doanh nghiệp chủ động cập nhật, tuân thủ và hiểu đúng các quy định về an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh động thực vật (SPS) và các quy định liên quan của thị trường EU.
“Quan trọng hơn, đó là uy tín của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. EU là một trong những thị trường xuất khẩu trọng điểm của nông sản Việt Nam. Đây cũng là một trong những thị trường có nhiều yêu cầu chặt chẽ, khoa học về mặt kỹ thuật. Nếu chúng ta tuân thủ tốt yêu cầu của thị trường EU sẽ là cơ hội để đưa nông sản Việt Nam vào nhiều thị trường tiềm năng trên thế giới”, ông Nam nhấn mạnh.